Chung cư hay Khu tập thể là những khu nhà ở bao gồm nhiều hộ dân sinh sống, bên trong cùng một tòa nhà, trong đó bố trí các căn hộ khép kín cho các gia đình sinh sống. Chung cư, nhà cao tầng thường xuất hiện nhiều ở các đô thị.
Chung cư, nhà cao tầng có vai trò quan trọng trong sự phát triển của đô thị hiện đại, bởi vì khi phát triển đô thị hóa lượng ngươi lao động tập trung đông ở các khu đô thị, khi đó nhu cầu về nhà ở bắt đầu nảy sinh nhiều vấn đề, nhu cầu (bức xúc về nhà ở, giá thành nhà ở, và các tiện ích công cộng khác…). Sự phát triển chung cư, nhà cao tầng để tiết kiệm diện tích sử dụng đất, giảm giá thành xây dựng, tạo cơ hội nhà ở cho nhiều người ở các tầng lớp khác nhau.
Sự hình thành phát triển của nhà ở chung cư nhà cao tầng:
Sau năm 1956 đất nước ta bị chia cắt Nam Bắc, ở giai đoạn này kinh tế nước ta nói chung và miền bắc nói riêng là rất khó khăn, tuy hiên một số thành phố lớn như Hà Nội, Thái Nguyên, Việt Trì… vẫn được quy hoạch xây dựng và phát triển, đây là thời điểm phát triển nhà ở với tiêu chí không gian đời sống tập thể, áp dụng lý thuyết quy hoạch của Liên Xô và các nước Xã hội chủ nghĩa khác. Các mô hình khu tập thể, chung cư nhà cao tầng này ra đời trên cơ sở đó có điều chỉnh phù hợp với các điều kiện đặc thù về khí hậu, kinh tế, tập quán và lối sống Việt nam, nên được coi là tương đối hoàn chỉnh. Các khu tập thể này có vai trò rất lớn trong việc cung cấp chỗ ở cho người dân ở các đô thị Miền Bắc nói chung và Hà Nội nói riêng lúc bấy giờ, đây là giải pháp phù hợp với giai đoạn kinh tế-xã hội thời kỳ bao cấp, giải quyết nhanh nhu cầu nhà ở của đông đảo thành phần cán bộ công nhân viên chức Thủ đô. Tính đến năm 1990, trên địa bàn Hà nội đã xây dựng khoảng 40 khu tập thể với gần 5 triệu m2, chiếm 7,5% quỹ nhà ở toàn quốc.
Các khu tập thể, khu chung cư ban đầu được nghiên cứu và xây dựng tại Hà Nội với quy mô nhỏ từ 3-15 ha, với các dãy nhà thấp tầng có chiều cao từ 1 đến 3 tầng, phân bố chủ yếu tại vành đai 1 và 2 của Thành phố như các khu: Nguyễn Công Trứ, Kim Liên. Cấu trúc các khu ở này chưa hình thành các cặp, cụm, nhóm nhà ở rõ nét, trung tâm khu tập trung không định hình.
Từ năm 1970, các khu tập thể, khu chung cư được xây dựng với quy mô trung bình từ 3-25 ha với các dãy nhà có chiều cao từ 4 đến 6 tầng, phân bố chủ yếu tại vành đai 2 và 3 của Thành phố như các khu: Trung Tự, Giảng Võ, Thành Công, Bách Khoa, Ngọc Khánh, Khương Thượng. Mô hình quy hoạch khu tập thể, khu chung cư thời kỳ này đã hoàn chỉnh hơn, tạo nên các đơn vị ở khép kín với đầy đủ các dịch vụ công cộng như nhà trẻ, trường học, công trình văn hoá, cửa hàng dịch vụ thương nghiệp. Cấu trúc đã phân rõ nhóm ở rõ ràng, trung tâm tập trung đặt tại giữa tiểu khu có bán kính phù hợp, có tính chất hướng nội, đóng kín và hạn chế giao tiếp không gian với khu vực lân cận. Mô hình này đẫ đạt được rất tốt các tiêu chí về không gian cây xanh, sinh hoạt công cộng, dịch vụ xã hội cũng như khả năng giao tiếp cộng đồng trong không gian đô thị cho một cụm dân cư với số dân trung bình từ 7.500-10.000 người.
Sau năm 1980 mô hình xây dựng khu tập thể, khu chung cư hoàn chỉnh này tiếp tục được áp dụng với quy mô đất lớn hơn từ 25-50 ha, trong đó bao gồm phát triển tiếp các khu tập thể, khu chung cư đã được xây dựng từ cuối thập kỷ 70 và đồng thời phát triển thêm một số khu mới như Thanh Xuân, Nghĩa Đô, Kim Giang… Các khu tập thể, khu chung cư thời kỳ này thường có mật độ xây dựng trung bình thấp (25%), các dãy nhà thấp tầng có chiều cao từ 4 đến 6 tầng thông thường được thiết kế theo kiểu hành lang bên và bố trí song song theo hướng đông tây để tránh nắng với khoảng cách giữa các dãy nhà tương đối lớn, thuận lợi cho việc thông gió và chiếu sáng cho các căn hộ… Mạng lưới giao thông nội bộ khu tập thể, khu chung cư được thiết kế rộng rãi và kết nối thuận tiện với mạng lưới giao thông chung của Thành phố.
Hình thức kiến trúc của các khu tập thể, khu chung cư tương đối đơn giản, hình khối và các chi tiết bên ngoài (cửa sổ, nhà vệ sinh, cầu thang…) phản ánh trung thực nội dung chức năng sử dụng bên trong, phù hợp với quan điểm của kiến trúc công năng, một xu hướng kiến trúc đang được suy tôn trên thế giới cũng như tại các nước XHCN. Tuy các mẫu nhà điển hình hơi đơn điệu nhưng với dáng vẻ công nghiệp và hiện đại, các khu tập thể, khu chung cư thời kỳ bấy giờ cũng góp phần làm đẹp thêm những khu vực mới mở rộng của Hà nội.
Công nghệ xây dựng các khu tập thể, khu chung cư cũng là một thử nghiệm mới mẻ lúc bấy giờ, lần đầu tiên chúng ta áp dụng phương pháp modul hóa và điển hình hóa trong xây dựng từ tổng thể tới chi tiết, tham khảo theo tiêu chuẩn xây dựng của các nước XHCN. Với biện pháp thi công lắp ghép tại chỗ, thời gian xây dựng một dãy nhà ( trung bình 5 tầng) rút ngắn chỉ còn khoảng 2 tháng.
Tình hình nhà ở chung cư, nhà cao tầng hiện nay.
Những năn qua do nhu cầu nhà ở tăng cao do sự phát triển đô thị hóa, các khu đô thị mới mọc ra ngày càng nhiều kéo theo đó là các khu chung cư, nhà ở cao tầng được đầu tư nhiều và trở thành nguồn cung lớn về nhà ở cho xã hội. Các loại nhà chung cư cũng rất phong phú, nhà ở chung cư cao cấp, nhà ở chung cư cho người thu nhập thấp, nhà ở chung cư mini… nhằm đắp ứng tốt nhất đến mọi đối tượng khách hàng.
Hình thức kiến trúc nhà ở trung cư, nhà cao tầng cũng rất phong phú, xong nhìn chung do sự phát triển của khoa học công nghệ trong lĩnh vực xây dựng nên các thiết kế nhà ở chung cư, nhà cao tầng là hiện đại, các công trình có kết cấu vững trãi, chiều cao công trình lớn phổ biến từ 15 – 30 tầng. với các hệ thống dịch vụ tiện nghi, hệ thống kỹ thuật hiện đại giúp các khu nhà ở chung cư trở thành thành lựa chọn chính của người dân hiện nay với các tiêu chí, dịch vụ tiện lợi, an ninh đảm bảo, an toàn và tiện nghi, đặc biệt giá thành hợp lý, đa dạng kiểu căn hộ có thể đáp ứng được mọi khách hàng từ bình dân đến cao cấp…
Gửi nhận xét của bạn
You must be logged in to post a comment.